Nguồn hình: primamedicine
Theo WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), tình trạng tăng huyết áp đang là một vấn đề sức khỏe rất đáng lo ngại, là mối đe dọa lớn đối với sức khoẻ con người, là nguyên nhân gây tàn phế và tử vong hàng đầu với những người lớn tuổi.
Theo dữ liệu của WHO số người trưởng thành bị tăng huyết áp đã tăng từ 594 triệu năm 1975 lên 1,13 tỷ vào năm 2015. Theo WHO, tăng huyết áp gây ra khoảng 8,5 triệu trường hợp tử vong mỗi năm trên toàn cầu. Theo ước tính của WHO, năm 2025 số người tăng huyết áp trên toàn thế giới ước tính là vào khoảng 15,6 tỷ người.
Nguồn hình: Internet
Theo thống kê tại Hoa Kỳ năm 1991 có khoảng trên 50 triệu người Mỹ bị tăng huyết áp chiếm 20% dân số nói chung và chiếm trên 30% trong số người trên 18 tuổi. Nhưng tới năm 2006, đã có khoảng 74,5 triệu người Mỹ bị tăng huyết áp. Có nghĩa là cứ khoảng 3 người lớn thì sẽ có 1 người bị tăng huyết áp.
Theo điều tra mới nhất của Hội tim mạch học Việt Nam, năm 2016, khoảng 48% người Việt Nam sẽ mắc bệnh tăng huyết áp. Đáng lo ngại, tăng huyết áp là bệnh dễ dẫn tới nhiều biến chứng nguy hiểm và là nguyên nhân khiến 7 triệu người trên Thế giới tử vong mỗi năm.
Do đó, việc kiểm soát và điều trị tăng huyết áp là rất quan trọng để giảm tỷ lệ tử vong và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Tăng huyết áp nhẹ (hay còn gọi là tăng huyết áp độ 1) là một tình trạng khi áp lực trong mạch máu của cơ thể tăng lên đến mức cao hơn so với mức bình thường. Theo tiêu chuẩn hiện tại, tăng huyết áp nhẹ được xác định khi áp huyết tâm thu (systolic blood pressure) nằm trong khoảng 140-159 mmHg và áp huyết tâm trương (diastolic blood pressure) nằm trong khoảng 90-99 mmHg.
Tăng huyết áp nhẹ có thể được coi là một tình trạng tiền bệnh lý, có nghĩa là nếu không kiểm soát tốt, nó có thể dẫn đến tăng huyết áp độ 2 hoặc các vấn đề sức khỏe khác. Việc theo dõi, kiểm soát và điều trị tăng huyết áp độ 1 là rất quan trọng để giảm nguy cơ mắc các tim mạch, đột quỵ, nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận, mù lòa mắt và các vấn đề sức khỏe khác.
Thay đổi chế độ ăn uống và lối sống khoa học, lành mạnh là mức độ chăm sóc đầu tiên được khuyến cáo cho những người bị tăng huyết áp nhẹ. Các biện pháp bao gồm giảm lượng muối và cồn, tăng lượng trái cây và rau có chứa nhiều canxi, magiê và kali (theo Hướng dẫn của Phụ trách WHO=ISH, 1999).
Trong tự nhiên γ-Aminobutyric acid C4H9NO2(GABA) có mặt trong nhiều loại rau củ, trái cây, lúa mì, ngũ cốc nguyên hạt, một số loại hạt nảy mầm và các loại thức ăn có nguồn gốc động vật như cá hồi, cá ngừ, tôm hùm, mực, trứng, thịt heo, ... Axit amin này được cho là giảm huyết áp ở động vật thí nghiệm (Takahashi và cộng sự, 1955) và con người (Elliott và Hobbiger, 1959). Hiệu quả giảm huyết áp của GABA là do khả năng chặn các hạch ngoại biên (Stanton, 1963). Ở chuột tự nhiên bị tăng huyết áp, GABA có tác dụng kháng tăng huyết áp, có thể thông qua khả năng ức chế noradrenalin được giải phóng từ các sợi thần kinh giao cảm (Hayakawa và cộng sự, 2002).
GABA là một trong những chất trung gian thần kinh ức chế quan trọng nhất trong hệ thống thần kinh trung ương của động vật có vú (Nicol et al, 1990). Nhiều nghiên cứu đã xác nhận rằng GABA có mặt trong một số mô ngoại vi và hoạt động như một chất trung gian thần kinh hoặc để điều tiết chức năng nội tiết và ngoại tiết (Tanaka, 1985; Erdo¨ & Wolff, 1990). Lần đầu tiên được báo cáo vào năm 1955 rằng việc tiêm tĩnh mạch GABA có tác dụng hạ huyết áp ở động vật (Takahashi et al, 1955). Các báo cáo về tác dụng hạ huyết áp của GABA tiêm tĩnh mạch ở động vật đã tăng dần từ những năm 1980. Tác động phụ thuộc vào liều lượng trong khoảng 1-1000 µg=kg (Billingsley & Suria, 1982), và mức độ tác dụng hạ huyết áp được liên quan đến độ lớn của huyết áp nghỉ (Giuliani et al, 1986).
Năm 1959, Elliott & Hobbiges tiêm tĩnh mạch GABA vào những tình nguyện viên nam khỏe mạnh với liều 50 - 100 mg và quan sát được hạ huyết áp hơn 25 mmHg. Việc sử dụng GABA đường uống 3 g mỗi ngày cho bệnh nhân tăng huyết áp đã được thực hiện tại Nhật Bản (Nhóm Nghiên cứu γ – Aminobutyric ở Tokyo, 1960). Trong thử nghiệm này, huyết áp của 51 trong số 67 bệnh nhân (76%) giảm ngay lập tức hoặc dần dần trung bình là 37 mmHg (huyết áp tâm thu) và 13 mmHg (huyết áp tâm trương), trong khi những bệnh nhân với huyết áp bình thường không có sự thay đổi so với huyết áp bình thường của họ.
Chức năng chính của GABA là ngăn chặn các tín hiệu truyền từ tế bào thần kinh đến não hoặc tỉ sống. Nguồn hình: kidneyurology
Kết quả nghiên cứu của một nhóm được đăng trên Tạp chí Dinh Dưỡng Lâm Sàng Châu Âu vào Tháng 3 năm 2003 cho thấy việc tiêu thụ chỉ 10 mg GABA mỗi ngày trong 12 tuần là hiệu quả đối với những người bị huyết áp nhẹ. Mặc dù cơ chế gây tác dụng giảm huyết áp của GABA được tiêm nghiên cứu chưa rõ ràng đến nay, nhưng đã đưa ra một số giả thuyết. Một trong số đó là như sau:
- Vì GABA khó đi qua rào cản máu não (Van Gelder & Elliott, 1958; Kuriyama & Sze, 1971), phân tử này không hoạt động trong hệ thống thần kinh trung ương mà hoạt động ở hệ thần kinh ngoại vi.
- GABA không chỉ ức chế sự tăng áp lực tạo ra từ kích thích dây thần kinh xung quanh mạch máu mà còn ức chế sự giải phóng noradrenalin đi kèm thông qua tác động của phân tử này lên thụ thể GABAB. Bởi vì GABA không tạo ra bất kỳ phản ứng giãn mạch nào, tác dụng hạ huyết áp của GABA có thể do sự ức chế giải phóng noradrenalin từ sợi thần kinh giao cảm (Hayakawa et al, 2002).
Gần đây, một số nghiên cứu đã báo cáo rằng các chất liệu dinh dưỡng hoặc sản phẩm chứa GABA giảm huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp tại Nhật Bản. Trong số những sản phẩm này có trà Gabaron (Oomori et al, 1987), chiết xuất beni-koji (Tsuji et al, 1992) và một loại gạo đặc biệt (Onoda et al, 1998).
Hiện nay, tại thị trường trong nước cũng có khá nhiều sản phẩm chế biến công bố hàm lượng GABA: Sữa GABA, gạo mầm GABA, trà GABA, một số sản phẩm bảo vệ sức khỏe chứa GABA dưới dạng viên uống, nước uống, … Đặc biệt những năm gần đây sản phẩm Bột Thập cốc GABA Nông Lâm đã tạo được lòng tin, sự quan tâm của người tiêu dùng.
Nhật Thanh
Bài viết tham khảo: